Bộ công thương dự thảo Thông tư quy định hàng Made in Việt Nam (2019)

Trong bối cảnh tồn tại các ý kiến không đồng nhất về việc xác định xuất xứ hàng hóa, Bộ Công Thương dựa trên các bộ quy tắc xuất xứ hiện đang áp dụng cho hàng xuất khẩu từ Việt Nam để xây dựng Thông tư Quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam.

Cơ quan soạn thảo cho biết, đối với hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu, Việt Nam đã có ban hành văn bản hướng dẫn đề cập đến cách hiểu như thế nào thì một sản phẩm được xem là có xuất xứ Việt Nam. Tuy nhiên, với hàng hóa sản xuất, gồm cả đầu vào nhập khẩu sau lưu thông trong nước thì chưa có quy định rõ ràng.

Theo dự thảo lần này, tùy thuộc vào quá trình sản xuất, gia công, chế biến, tổ chức, cá nhân có thể lựa chọn và chỉ sử dụng một trong các cụm từ sau đây để thể hiện hàng hóa là hàng hóa của Việt Nam trên nhãn hàng hóa và/hoặc trên tài liệu, vật phẩm chứa đựng thông tin liên quan đến hàng hóa đó:

  • Sản phẩm của Việt Nam hoặc sản phẩm Việt Nam,
  • Hàng hóa của Việt Nam hoặc hàng hóa Việt Nam hoặc hàng Việt Nam,
  • Sản xuất tại Việt Nam hoặc Việt Nam sản xuất,
  • Chế tạo tại Việt Nam hoặc Việt Nam chế tạo, Chế tác tại Việt Nam hoặc Việt Nam chế tác.

Theo đó, hàng hóa được coi là hàng hóa của Việt Nam sẽ rơi vào các trường hợp sau:

  • Hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam;
  • Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa.

Đồng thời, Thông tư cũng quy định trường hợp Hàng hóa không được xem là có xuất xứ Việt Nam, nếu chỉ trải qua một hoặc kết hợp nhiều công đoạn sau:

  • Các công việc bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển và lưu kho (thông gió, trải ra, sấy khô, làm lạnh, ngâm trong muối, xông lưu huỳnh hoặc thêm các phụ gia khác, loại bỏ các bộ phận bị hư hỏng và các công việc tương tự);
  • Các công việc như lau bụi, sàng lọc, chọn lựa, phân loại (bao gồm cả việc xếp thành bộ) lau chùi, sơn, chia cắt ra từng phần; thay đổi bao bì đóng gói và tháo dỡ hay lắp ghép các lô hàng; đóng chai, lọ, đóng gói, bao, hộp và các công việc đóng gói bao bì đơn giản khác; dán lên sản phẩm hoặc bao gói của sản phẩm các nhãn hiệu, nhãn, mác hay các dấu hiệu phân biệt tương tự; trộn đơn giản các sản phẩm, dù cùng loại hay khác loại; lắp ráp đơn giản các bộ phận của sản phẩm để tạo nên một sản phẩm hoàn chỉnh; giết, mổ động vật.

Ngoài ra, hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và hàng hóa lưu thông trên thị trường Việt Nam, nếu không đáp ứng điều kiện nêu trên, không được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam trên nhãn hàng hóa và/hoặc trên bất kỳ tài liệu, vật phẩm nào chứa đựng thông tin liên quan đến hàng hóa đó.

Hiện vẫn đang có những bàn luận xoay quanh các quy định “Made in Vietnam” trong dự thảo Thông tư lần này. Cục Xuất nhập khẩu khẳng định, về nguyên tắc, Thông tư sẽ không làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp bởi ghi nhãn hàng hóa và công bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa đã từ lâu là yêu cầu bắt buộc theo quy định của Nghị định 43. Thông tư chỉ giúp các tổ chức, cá nhân có căn cứ để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị định 43, giúp loại bỏ các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ.

Xem thêm: